Rồng Việt cho biết, trong bối cảnh nền kinh tế đạt mức tăng trưởng thấp nhất trong thập kỷ, số lượng doanh nghiệp đóng cửa tăng vọt, ngành ngân hàng vẫn ghi nhận lợi nhuận tốt. Về mặt tích cực, một số ngân hàng vẫn đạt được thu nhập lãi thuần cao, nhờ vào cho vay các phân khúc ít bị ảnh hưởng, trong khi lợi nhuận của một số ngân hàng khác được hỗ trợ bởi khoản phí trả trước từ các hợp đồng bancassurance độc quyền, cơ hội đến từ thị trường vàng biến động, chênh lệch tỷ giá mở rộng và lãi suất giảm sâu.
Theo Rồng Việt, tình hình hiện tại tích cực hơn kỳ vọng ban đầu dựa trên lo ngại về chi phí dự phòng tăng mạnh và nhu cầu cho vay yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Điều này cũng nhờ vào việc cơ cấu nợ và duy trì giữ nguyên nhóm nợ bị ảnh hưởng đã giúp giảm áp lực trích lập cho các khoản cho vay tái cơ cấu. Năm 2021, những lo ngại này sẽ trở lại khi Thông tư 01 hết hiệu lực. Chi phí dự phòng cao và độ trễ trong hình thành nợ xấu được dự đoán sẽ cản trở tăng trưởng lợi nhuận.
Về chỉ tiêu tài chính, tăng trưởng lợi nhuận trước thuế bình quân của các ngân hàng niêm yết đạt hai con số trong 9 tháng 2020 (tăng 11% so với cùng kỳ). Con số này thậm chí còn cao hơn mức tăng của tổng thu nhập hoạt động ( 10%).
Mức tăng của chi phí trích lập dự phòng (tăng 15% so với cùng kỳ trong 9 tháng 2020) được bù đắp bởi chi phí hoạt động tăng trưởng thấp hơn ( 7%).
Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng vượt chỉ tiêu Ngân hàng Nhà nước giao (8-10%), ở mức 12,1%.
Những kết quả nói trên tốt hơn so với triển vọng đưa ra vào giữa năm 2020. Mặc dù kết quả hoạt động là đáng khích lệ, nhưng vẫn còn đó sự chưa chắc chắn trong yếu tố nợ xấu mới hình thành và chính sách trích lập dự phòng trong năm 2021. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang chuẩn bị dự thảo văn bản sửa đổi Thông tư 01 khi thông tư này đã hết hiệu lực sau ngày 31/12/2020. Mục tiêu là duy trì hỗ trợ các doanh nghiệp và nền kinh tế, nhưng cũng bắt đầu phản ánh hậu quả của tác động của đại dịch đối với hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng đã chuẩn bị đủ?
Đến cuối quý 3/2020, tỷ lệ nợ xấu (NPL) của các ngân hàng niêm yết tăng từ 1,5% cuối năm 2019 lên 1,8% trong khi tỉ lệ này của toàn hệ thống đạt 2,0%. Tỉ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của các ngân hàng niêm yết là 86%. Chi phí dự phòng tăng 15% so với cùng kỳ và chi phí tín dụng tăng nhẹ lên 1,5%. Nợ tái cơ cấu chiếm 3,7% tổng dư nợ toàn hệ thống, tăng 144 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2020. Đối với các ngân hàng quốc doanh niêm yết (3-SOBs), tổng dư nợ tái cơ cấu là 2,0% tổng dư nợ, trong khi nợ xấu cuối kỳ chiếm 1,7% vào cuối 9 tháng 2020. Các con số này lần lượt là 4,2% và 1,7% đối với nhóm 4 ngân hàng tư nhân lớn nhất (4-JCBs, bao gồm Techcombank, VPBank, MB, ACB).
Điều này ám chỉ đại dịch ảnh hưởng đến nhóm 4 ngân hàng tư nhân lớn nhất mạnh mẽ hơn. LLR của nhóm 3-SOBs là 107% vào cuối quý 3/2020, so với 81% của nhóm 4-JCBs. Đây là cơ sở để tin rằng các ngân hàng quốc doanh thận trọng hơn các ngân hàng tư nhân, do đó, có thể có kết quả tốt hơn vào năm 2021.
Trong vài tuần đầu của năm 2021, một số ngân hàng lớn đã công bố kết quả tài chính sơ bộ. Theo Rồng Việt, có xu hướng giảm tỷ lệ nợ xấu đáng kể tại các ngân hàng. Vietcombank đã chứng kiến tỷ lệ nợ xấu giảm xuống 0,6% từ mức 1,0% trong quý 3/2020. Vietinbank cũng chứng kiến tỷ lệ nợ xấu giảm xuống dưới 1% từ 1,9% trong 9 tháng 2020. Nợ xấu của TPBank giảm từ 1,8% xuống 1,1% sau quý 4. Trường hợp này cũng áp dụng cho MB (giảm từ 1,5% xuống 1,1%). Rồng Việt dự đoán một khoản trích lập dự phòng lớn đã được sử dụng để xóa nợ xấu. Đây có thể là bước chuẩn bị cho sự không chắc chắn trong dự phóng nợ xấu mới hình thành, chuyển nhóm nợ và thu hồi nợ tái cơ cấu vào năm 2021.
Với quy mô nợ xấu và số dư nợ cơ cấu lại của các ngân hàng, Rồng Việt cho rằng các ngân hàng quốc doanh đã chuẩn bị tốt bộ đệm về trích lập dự phòng, trong khi các ngân hàng tư nhân đang kỳ vọng tỷ lệ hạ nhóm của nợ tái cơ cấu thấp, kinh tế phục hồi mạnh và nợ xấu mới hình thành ở mức vừa phải.
|
|
Chi phí dự phòng sẽ duy trì mức cao như dự kiến |
Các ngân hàng có thể phải trích lập dự phòng cho nợ tái cơ cấu theo dự thảo sửa đổi Thông tư 01. Mới đây, theo văn bản trình Bộ Tài chính lấy ý kiến, dự thảo sửa đổi Thông tư 01 yêu cầu các ngân hàng thương mại duy trì giữ nguyên nhóm nợ, cơ cấu lại các khoản nợ bị ảnh hưởng, miễn và giảm lãi suất cho các khách hàng đủ tiêu chuẩn, và quan trọng là bắt đầu trích lập dự phòng cho các khoản nợ được cơ cấu lại dựa trên bản chất của các khoản vay.
Ngân hàng Nhà nước cũng đề xuất kéo dài thời gian trích lập dự phòng cho các ngân hàng theo lộ trình kết thúc vào năm 2024. Điều này sẽ giúp giảm bớt áp lực tăng chi phí dự phòng và cho các ngân hàng thời gian xử lý nợ xấu. Nợ cơ cấu lại theo Thông tư 01 chưa được trích lập dự phòng đầy đủ là một trong những yếu tố hỗ trợ cho hiệu quả hoạt động tốt của nhiều ngân hàng trong năm 2020.
Theo Rồng Việt, nền chi phí dự phòng sẽ được giữ ở mức cao để trích lập dự phòng từng phần cho khoản nợ tái cơ cấu. Tuy nhiên, nền so sánh cao sẽ cho phép một số ngân hàng mà đã tích cực trích lập một mức tăng tương đối ở chi phí dự phòng thấp. Do đó, Rồng Việt ước tính áp lực lên lợi nhuận trước thuế sẽ giảm ở những ngân hàng này.
Đối với các ngân hàng có tỷ lệ chi phí tín dụng và LLR thấp, và nợ tái cơ cấu đáng kể, các ngân hàng sẽ tiếp tục chịu chi phí dự phòng tăng mạnh, mặc dù nền so sánh cao. Tuy nhiên, điều này chưa tính đến hoạt động kinh doanh cũng như các khoản thu nhập tiềm năng khác, hoặc dư địa để cắt giảm chi phí, những yếu tố mà sẽ giúp giảm tác động của chi phí dự phòng cao lên lợi nhuận trước thuế.
Triển vọng 2021
Rồng Việt cho rằng các quy định mà dự thảo Thông tư 01 đưa ra là một giải pháp tốt. Rồng Việt dự báo, chi phí tín dụng cho hệ thống ngân hàng sẽ cao ổn định dựa trên cách tiếp cận thận trọng, ít nhất là trong năm 2021. Việc xử lý tốt nợ xấu sẽ là một bất ngờ tích cực, trong khi tốc độ phục hồi trong trường hợp có vắc xin hoặc trong điều kiện bình thường mới là không chắc chắn. Các ngân hàng thận trọng trong trích lập cho rủi ro tín dụng vào năm 2020 sẽ ít gặp áp lực hơn. Các bộ đệm dự phòng có thể được sử dụng để hỗ trợ lợi nhuận như giảm chi phí, thu nhập từ khoản phí trả trước, thu nhập từ thu hồi nợ xấu hoặc cuộn lợi suất danh mục trái phiếu chính phủ.