Tòa cấp sơ thẩm xét xử thế nào?

leftcenterrightdel
 TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.

Anh Võ Văn Cường (ngụ tỉnh Long An) cho biết, ngày 10/9/2019, anh có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) với vợ chồng anh Nguyễn Đắc Thành và chị Lê Thị Muội (ngụ TP. HCM). Theo hợp đồng, anh Cường nhận chuyển nhượng khoảng 36.000m2 đất tại thị trấn Gò Dầu (huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) với giá 500 triệu đồng. Hợp đồng của 2 bên được công chứng theo quy định của pháp luật. 

Ngày 25/10/2019, anh Cường thực hiện việc nộp lệ phí trước bạ nhà đất và thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, nhận thừa kế, nhận quà tặng là bất động sản vào ngân sách Nhà nước và được cơ quan chức năng tiến hành cập nhập, chỉnh lý tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), hiện quyền sử dụng đất mang tên anh Võ Văn Cường.

Sau khi nhận chuyển nhượng, anh Cường bất ngờ nhận được thông báo của TAND huyện Gò Dầu gửi tới với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện tranh chấp dân sự về đòi lại tài sản và yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Cường và vợ chồng anh Thành vô hiệu.

leftcenterrightdel
 Bản án sơ thẩm của TAND huyện Gò Dầu.

Theo bản án sơ thẩm của TAND huyện Gò Dầu, nguyên đơn là bà Nguyễn Ánh Phúc (ngụ thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) khởi kiện yêu cầu anh Thành, chị Muội phải trả lại số tiền 3,9 tỷ đồng đã vay của bà Phúc theo giấy nhận nợ ngày 14/11/2018, đồng thời bà Phúc yêu cầu tòa tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng anh Thành, chị Muội với anh Cường vì bà Phúc cho rằng vợ chồng anh Thành, chị Muội đã tẩu tán tài sản, không trả nợ cho bà và hiện nay vợ chồng anh Thành, chị Muội không còn tài sản nào khác.

Tại phiên xét xử sơ thẩm, TAND huyện Gò Dầu đã nhận định việc bà Phúc khởi kiện anh Thành, chị Muội phải trả lại 3,9 tỷ đồng là có cơ sở và đầy đủ bằng chứng, HĐXX đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phúc, tuyên anh Thành, chị Muội phải trả bà Phúc 3,9 tỷ đồng.

leftcenterrightdel
 Mảnh giấy nhận nợ của anh Thành với bà Phúc không thể hiện việc anh Thành thế chấp quyền sử dụng đất cho bà Phúc.

Toà cũng tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa anh Cường và vợ chồng anh Thành. HĐXX cho rằng, căn cứ vào Khoản 2, Điều 124 của Bộ luật dân sự, quy định: “Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả mạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”, đồng thời anh Thành và người đại diện theo ủy quyền của anh Thành, chị Muội thừa nhận ngoài tài sản này, anh Thành, chị Muội không còn tài sản nào khác, thời điểm giấy nhận nợ xảy ra (ngày 14/11/2018), trước ngày anh Thành, chị Muội lập hợp đồng chuyển nhượng cho anh Cường (ngày 10/9/2019)…

Toà cấp phúc thẩm thụ lý kháng cáo

leftcenterrightdel
 Khu đất anh Cường nhận chuyển nhượng từ vợ chồng anh Thành, chị Muội.

Không đồng ý với phán quyết của TAND huyện Gò Dầu tại bản án sơ thẩm, anh Võ Văn Cường và Nguyễn Đắc Thành đều đã có đơn kháng cáo lên TAND tỉnh Tây Ninh yêu cầu TAND tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, không chấp yêu cầu khởi kiện của bà Phúc về việc đề nghị tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Thành, chị Muội và anh Cường. 

Ngày 19/5/2020, TAND tỉnh Tây Ninh đã có thông báo thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Anh Cường cho rằng, việc mua bán giữa các bên được thực hiện theo đúng quy định, không vi phạm điều cấm, được công chứng và sang tên QSDĐ theo quy định của pháp luật. Việc vay mượn giữa anh Thành, chị Muội với bà Phúc là giao dịch dân sự giữa các bên, không liên quan đến việc anh nhận chuyển nhượng QSDĐ từ anh Thành, chị Muội.

leftcenterrightdel
 Đơn kháng cáo của anh Cường gửi lên TAND tỉnh Tây Ninh yêu cầu huỷ một phần bản án sơ thẩm của TAND huyện Gò Dầu.
leftcenterrightdel
 Thông báo thụ lý để xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh.

“Trong quá trình của vụ án cho thấy, anh Thành, chị Muội khi vay nợ cũng không thế chấp cho bà Phúc QSDĐ đã chuyển nhượng cho tôi, giữa 2 bên chỉ có giấy nhận nợ. Hơn nữa, việc chuyển nhượng giữa anh Thành, chị Muội và tôi đã được công chứng, được cập nhập trên GCNQSDĐ theo đúng quy định thì không có lý gì TAND huyện Gò Dầu tuyên hủy hợp đồng như vậy được. Việc làm này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tôi”, anh Cường khẳng định.

Liên quan đến việc giao dịch giữa anh Cường và vợ chồng anh Thành, bị TAND huyện Gò Dầu tuyên vô hiệu, Luật sư Trương Văn Tuấn – Đoàn Luật sư TP.HCM cho biết: “Việc chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng anh Thành, chị Muội với anh Cường là phù hợp với quy định của pháp luật. Về nội dung của giao dịch, các bên tham gia giao dịch tuân thủ đúng Điều 501, Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nội dung của hợp đồng về QSDĐ. 

Bên cạnh đó, các bên thực hiện đúng Khoản 1, Điều 188 của Luật Đất đai 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSDĐ, góp vốn QSDĐ”.

leftcenterrightdel
Luật sư Trương Văn Tuấn – Đoàn Luật sư TP.HCM khẳng định việc chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng anh Thành với anh Cường là phù hợp với quy định của pháp luật. 

Luật sư Trương Văn Tuấn phân tích thêm: “Về hình thức của giao dịch, các bên đã thực hiện đúng quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 502 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức của hợp đồng về QSDĐ. Cụ thể, ngày 10/9/2019, các bên đã thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại Phòng công chứng số 2 tỉnh Tây Ninh theo đúng quy định của pháp luật. 

Tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng thì QSDĐ của anh Thành, chị Muội không bị ngăn chặn bởi bất kỳ văn bản nào của cơ quan thi hành án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Sau đó, bên nhận chuyển nhượng là anh Cường đã thực hiện thủ tục đóng thuế, cập nhật biến động đất đai và đứng tên trên GCNQSDĐ vào ngày 25/10/2019”.

“Như vậy, việc anh Cường nhận chuyển nhượng QSDĐ đất từ anh Thành, chị Muội là đúng với quy định của pháp luật”, luật sư Trương Văn Tuấn khẳng định.

Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin vụ việc.

Theo Trung Kiên/Dân trí
Nguồn
Link bài gốc

https://dantri.com.vn/ban-doc/bi-toa-huy-hop-dong-chuyen-nhuong-dat-vi-khoan-no-khong-lien-quan-20200703085316284.htm