Theo đánh giá của HoREA, xử lý nợ xấu là bất động sản một cách quyết liệt, chặt chẽ, giúp đảm bảo an toàn hệ thống tín dụng và ngăn ngừa hiện tượng “sở hữu chéo”, “doanh nghiệp thân hữu, sân sau”. Tuy nhiên còn có những "vướng mắc" về pháp lý cần được tháo gỡ nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thực hiện xử lý nợ xấu.

Đối với trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khoản vay tín dụng trở thành khoản nợ xấu là dự án kinh doanh bất động sản thuộc trường hợp được giao đất, cho thuê đất có thời hạn.

Đơn cử như tại dự án Sài Gòn One Tower do Công ty M&C làm chủ đầu tư. Dự án này được thế chấp cho khoản vay tín dụng tính cả gốc và lãi đến năm 2017 lên đến hơn 7.000 tỷ đồng tại Ngân hàng Hàng hải (MSB) và Ngân hàng Đông Á (DAB), trở thành khoản nợ xấu, thuộc một vụ án hình sự, đã được VAMC thu giữ năm 2017 và đã dự kiến đưa ra đấu giá với giá khởi điểm 6.110 tỷ đồng (năm 2019). Song, đến nay, VAMC vẫn chưa tổ chức đấu giá được dự án này.

Dự án Sài Gòn One Tower.
Dự án Sài Gòn One Tower.

Theo đó, đang tồn tại một số “vướng mắc” về pháp lý và thực tiễn cần được xem xét xử lý.

Thứ nhất, về thời hạn sử dụng đất, bên cạnh ngân hàng còn có nhiều chủ thể tham gia “giải cứu” các khoản “nợ xấu” tín dụng, vì không chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền, VAMC, ngân hàng tổ chức đấu giá tài sản bảo đảm là bất động sản hoặc dự án bất động sản mà còn có nhiều trường hợp doanh nghiệp thỏa thuận với ngân hàng, hoặc ngân hàng “xin” VAMC cho được nhận lại các khoản “nợ xấu” để phối hợp với chủ đầu tư tự xử lý các dự án bất động sản là tài sản bảo đảm, góp phần “giải cứu” các khoản “nợ xấu” tín dụng và tái khởi động lại các dự án “trùm mền” đưa trở lại thị trường.

Mặt khác, đối với bất động sản, dự án bất động sản được giao đất, cho thuê đất có thời hạn, Luật Đất đai 2013 chỉ quy định một cách tính thời hạn sử dụng đất là “thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. 

Do quy định này, năm 2019 VAMC đã xác định giá khởi điểm đấu giá 6.110 tỷ đồng trên cơ sở xác định “giá đất cụ thể” tính theo thời gian sử dụng đất còn lại của Dự án Sài Gòn One Tower chỉ còn 39 năm (trừ đi 11 năm do đã có quyết định giao đất năm 2008), nên giá trị của dự án đã bị giảm đi và kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, cách tính thời hạn sử dụng đất của Luật Đất đai 2013 chưa đầy đủ và chưa sát với thực tiễn, bởi một dự án bất động sản, nhà ở thường phải mất thời gian khoảng trên dưới 3 năm để thi công xây dựng các công trình (để có đủ điều kiện để được huy động vốn).

Do vậy, việc tính thời hạn sử dụng đất được tính từ thời điểm có quyết định giao đất, cho thuê đất là chưa hợp tình hợp lý, mà nên tính từ thời điểm hoàn thành xây dựng đưa dự án vào sử dụng, hoặc đủ điều kiện để huy động vốn.

Như vậy, bên cạnh quy định hiện hành về thời hạn sử dụng đất tính từ thời điểm có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì nên quy định thêm 03 cách tính thời hạn sử dụng đất như trên, để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét áp dụng cho phù hợp với từng trường hợp.

Thứ hai, còn một số bất cập trong khâu thẩm định giá, thẩm định giá tài sản bảo đảm là bất động sản. Trong điều kiện thị trường bất động sản bình thường, đối với đa số người có tài sản thế chấp thường được ngân hàng nhận thế chấp định giá bằng khoảng 60% giá trị thật và được cho vay bằng khoảng 60% giá trị tài sản được định giá.

Trong điều kiện thị trường bất động sản bị khủng hoảng, tài sản thế chấp chỉ được định giá bằng khoảng 45-50% giá trị; khoản cho vay bằng 60% giá trị tài sản được định giá.

Với cách định giá tài sản bảo đảm (nêu trên) của các tổ chức tín dụng thì người vay tiền có “rủi ro” bị thiệt hại rất lớn.

Ngược lại, trong những năm trước đây có hiện tượng doanh nghiệp thuộc “nhóm thân hữu, sân sau, sở hữu chéo” của ngân hàng thì tài sản bảo đảm có thể được định “vống” giá trị cao lên, được vay nhiều hơn, thậm chí không có tài sản bảo đảm vẫn được vay tín dụng, kéo theo “rủi ro” lớn cho tổ chức tín dụng, phải có giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn các trường hợp này.

Từ thực tế trên, HoREA đề xuất “luật hoá” quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 10 Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 của Quốc hội cho phép chuyển nhượng dự án bất động sản khi “đã có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” để tạo điều kiện xử lý “nợ xấu” tài sản bảo đảm là bất động sản thế chấp tại ngân hàng thương mại.

Bởi lẽ, theo quy định hiện hành của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản (nêu trên) chỉ được “chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khi đã có Giấy chứng nhận”.

Theo Hiệp hội, các quy định pháp luật đã hạn chế “quyền” của doanh nghiệp nên không đồng bộ với quy định “thông thoáng” của Luật Doanh nghiệp 2020.

HoREA cũng nhận định rằng việc bán, chuyển nhượng dự án bất động sản không làm tăng giá nhà ở như một số người quan ngại, vì giá cả do thị trường quyết định và tuân theo quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, không chỉ do ý muốn chủ quan của chủ đầu tư.

Hơn nữa, việc cho phép chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản một cách thông thoáng còn giúp cho thị trường bất động sản vận hành minh bạch, lưu thông hàng hoá (là dự án) được thông suốt và nhà nước thu được thuế, quản lý được thị trường.

Đáng kể hơn nữa là nhà nước khắc phục được tình trạng “bất cập” hiện nay là doanh nghiệp “lách” bằng cách chuyển nhượng cổ phần, thay đổi cổ đông, thay đổi “ruột” của doanh nghiệp, chứ không mua bán dự án - trong khi thực chất đây là chuyển nhượng dự án, khiến nhà nước thất thu thuế.

Do đó, HoREA đề nghị Chính phủ “luật hoá” điểm b Khoản 1 Điều 10 Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 của Quốc hội, bổ sung vào các đạo luật Đất đai và Kinh doanh bất động sản quy định này.

 

PV (T/h)


Nguồn Taichinhdoanhnghiep
Link bài gốc

https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/horea-kien-nghi-xu-ly-tai-san-bao-dam-no-xau-la-bat-dong-san-d24022.html